Vì sao y học hiện đại "tôn vinh" đậu nành (Phytoestrogen)
Đậu nành khi nhắc đến đều được biết gắn liền với phụ nữ. Theo Đông y, đậu nành tính bình và có vị ngọt; hoạt chất trong đậu nành khi vào kinh tỳ và thận có tác dụng lợi thấp, giải biểu, khu phong, hoạt huyết. Trong nghiên cứu được thực hiện bởi các nhà khoa học và chuyên gia dinh dưỡng Việt Nam, Nhật Bản, Mỹ tham gia hội thảo quốc tế “Dinh dưỡng đậu nành và sức khỏe nam giới” vừa được tổ chức tại TP.HCM đưa ra nhiều quan niệm sai lầm được phơi bày liên quan đến giá trị của đậu nành là không tốt cho nam giới, thực tế những quan niệm này hoàn toàn thiếu kiểm chứng khoa học. Quan niệm này cho rằng khi nam giới sử dụng đậu nành sẽ gây ảnh hưởng đến sinh lý, đặc biệt là tình trạng vô sinh.
Thông tin truyền miệng về đậu nành ảnh hưởng đến sức khỏe sinh lý nam giới xuất phát từ yếu tố là thực phẩm giàu isoflavones hay còn biết dưới tên gọi phytoestrogen. Đây là cấu trúc gần giống estrogen của nữ nên đó là lý do vì sao mầm đậu nành hay bị lầm tưởng sẽ ảnh hưởng đến nam giới, nhưng thực chất isoflavones không phải là estrogen trong cơ thể.
Ngoài ra, trong dân gian người ta có lan truyền khi kết hợp đậu nành với ý dĩ, hoài sơn, hắc chi ma (mè đen), hạt sen để cả tâm sen, mật ong rừng các vị này khi hòa lẫn với đậu nành thì thật sự rất tuyệt vời khiến công năng phòng trị bệnh trở nên đạt được sự bất ngờ giúp trẻ khỏe, trường thọ, tiêu tan bệnh tật. Phương thuốc tuyệt vời này cho ta công hiệu hỗ trợ trị chứng béo phì, giảm cân, lại vừa trị trĩ, giúp phát triển tóc móng, chữa đau nhức xương khớp, làm cơ thể khỏe mạnh, da dẻ mịn hồng hào…
Các chất chống ung thư của đậu nành
Trong thành phần của đậu nành ngoài chứa rất nhiều protein là 8 loại amino acids thiết yếu, đậu nành cũng là nguồn cung cấp phong phú các loại vitamin B, calcium, chất xơ và chất sắt. Tuy nhiều là thế nhưng cái mà các nhà khoa học đón đợi nhất trong những nghiên cứu gần đây là sự khám phá ra các hóa chất thảo mộc được tạm dịch là hóa thảo (phytochemicals) trong đậu nành. Hóa chất thảo mộc này được ghi nhận có đặc tính chống lại các mầm mống ung thư hoặc làm chậm phát triển của ung thư (anticarcinogen).
Trong quá trình ung thư phát triển có ba giai đoạn - giai đoạn bị nhiễm chất tạo ra mầm ung thư (initiation), giai đoạn thúc đẩy hay khuyến khích (promotion), tức là giai đoạn bị các chất khác kích thích và thúc đẩy mầm ung thư phát triển, và giai đoạn phát triển (progression). Một tế bào bị nhiễm mầm ung thư và được kích thích cho tăng trưởng trở thành tế bào ung thư (cancer cell).
Ðể đúc kết những khám phá mới liên quan đến đậu nành và ung thư trong lãnh vực y khoa phòng ngừa, vào ngày 27 tháng 6 năm 1990 có rất nhiều các nhà khoa học của các tổ chức nghiên cứu và các viện đại học nổi tiến trên thế giới tập trung tại Viện Ung Thư Quốc Gia Mỹ (National Cancer Institute) ở Washington, DC, để thảo luận về tác dụng chống ung thư của đậu nành.
Các nhà khoa học tham dự hội nghị, sau khi được nghe trình bày và thảo luận cùng nhau đã thống nhất đồng ý rằng có những bằng chứng rõ rệt về ngăn ngừa ung thư của đậu nành, và họ xác định năm chất hóa thảo có đặc tính chống lại mầm ung thư có trong đậu nành là: phytate, phytosterols, protease inhibitors, saponins, và isoflavones.
Thật đáng ngạc nhiên khi chỉ với một hạt đậu nành nhỏ đã chứa tới 5 (năm) chất hóa thảo chống mầm mống ung thư! Tuy vậy, điều kỳ diệu hơn trong đậu nành còn có nhiều chất khác: chất Bowman-Birk Inhibitor (BBI), chất phenolic acids, chất lecithin, và omega-3 fatty acids…
Trải qua hơn nhiều năm và qua các cuộc nghiên cứu, theo dõi với nhiều thiết kế khác nhau, các khoa học gia đã thừa nhận một trong những hóa thảo đậu nành là phytate giúp chúng ta phòng ngừa bệnh ung thư.
1. Sản phẩm ức chế khả năng phân hủy protein
Một điều dễ nhận thấy, cơ chế tự bảo vệ nòi giống của cây đậu nành rất cao, cho dù bị một loài chim nào đó ăn, trong đậu nành sẽ tạo ra tác nhân ức chế phân hủy protein và đặc biệt là cấu trúc lớp vỏ của hạt đậu, nên hạt có thể không bị tiêu hóa trong dạ dày, dẫn tới khi phân chim thải ra, nhiều hạt đậu còn có khả năng mọc mầm trở thành cây đậu nành nguyên vẹn.
Vậy nếu con người tiêu thụ đậu nành thì dạ dày có tiêu hóa được không?
Các sản phẩm khi đưa vào cơ thể con người sẽ có một cơ chế tự điều hòa, lúc này cơ thể nhận biết và làm tăng điều tiết một số enzyme ở tuyến tụy dẫn tới làm giảm tác dụng của một số tác nhân ức chế phân hủy protein. Một số sản phẩm ức chế khả năng phân hủy protein này bị giảm đáng kể qua chế biến nấu ăn hoặc khi hạt mọc mầm.
2. Dùng sản phẩm đậu nành như vị thuốc phòng bệnh
Đã từ xưa đậu nành được cho là loại thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao, nên ngày nay qua nhiều nghiên cứu để chứng minh được nhiều lợi ích của sản phẩm này. Thành phần chính trong đậu nành là Isoflavones đã được xác thực tính ngăn ngừa chứng xốp xương hoặc loãng xương, thành phần này có thể duy trì tính chất những tế bào xương thêm vững chắc, đặc biệt là có khả năng không chế các chứng tiền mãn kinh. Ngoài ra, protein trong đậu nành giảm hiệu quả cholesterol và triglyceride trong máu. Các nghiên cứu còn chỉ ra rằng ăn nhiều sản phẩm từ đậu nành có thể giúp ngăn ngừa được nhiều bệnh ung thư nhất là ung thư do hormon gây ra: ung thư tiền liệt tuyến, ung thư đường ruột và đặc biệt là ung thư ngực. Trong nghiên cứu tại Nhật Bản, các khoa học gia đã chứng minh được rằng tỷ lệ phụ nữ sử dụng nhiều thực phẩm làm từ đậu nành hàng ngày sẽ ít bị ung thư vú hơn những người ít sử dụng các loại thực phẩm đó.
Tại Hàn Quốc, các nhà khoa học cũng cho biết về chế độ dinh dưỡng giàu đậu nành đen có thể giúp kiểm soát thể trọng, hạn chế chất béo và phòng bệnh tiểu đường. Loại hạt này được đánh giá là một trong những họ đậu có ít chất béo nhưng giàu chất xơ hòa tan này còn có tác dụng làm giảm hàm lượng cholesterol trong máu.
Nghiên cứu của các khoa học gia, trường Ðại Học Tulane ở New Orleans còn cho biết thêm là sữa đậu nành không chỉ đơn thuần là một loại thức uống ngon, bồi bổ sức khỏe, mà còn có thể giúp phòng và chống được nhiều bệnh thời đại như béo phì, tiểu đường, rối loạn nội tiết tố, loãng xương, tim mạch, kể cả ung thư hay các bệnh liên quan đến gan mật.
Protease inhibitors
Cái tên protease inhibitors được xem như là một chất gây hại cho sức khỏe đã được nhắc đến gần 40 năm. Mãi đến khi năm 1980, Dr. Walter Troll thuộc trường đại học y khoa New York University Medical Center đã thành công khi có phát hiện, đậu nành nguyên sơ không những không gây hại mà còn có khả năng ngăn cản sự phát triển bệnh ung thư nhờ tác dụng của chất protease inhibitors.
Tiếp theo sau đó, nhiều khoa học gia khác qua thử nghiệm chất protease inhibitors thấy rằng sự chống lại phát triển mầm ung thư kết tràng (colon), ung thư phổi, ung thư miệng, ung thư tuyến tụy (pancreas).
Một ghi nhận đáng ngạc nhiên vào năm 1987, Viện Ung Thư Quốc Gia Mỹ (National Cancer Institute) đã nhìn nhận lại vai trò của protease inhibitor như là một loại thuốc chữa bệnh ung thư.
Cơ chế của protease inhibitors sẽ ngăn ngừa sự tác động của một số genes di truyền gây nên chứng ung thư; ngoài ra, còn giúp bảo vệ các tế bào cơ thể không cho hư hại như tia nắng phóng xạ và các gốc tự do (free radicals), chất có thể tấn công làm tổn thương AND, bộ máy di truyền của con người
Tuy nhiên, protease inhibitors chỉ tồn tại dưới dạng đậu nành nguyên sơ, còn sau khi được chế biến và lòng nóng sẽ bị mất bớt đi. Thí dụ như sữa đậu nành còn lại 41,4%, đậu hũ còn lại 0,9% so với bột đậu nành nguyên chất (raw soy flour).
Phytate
Hóa thảo phytate là một hợp thể chất khoáng phosphorus và inositol. Giống như hóa thảo protease inhibitors, phytate có một lịch sử lâu dài không được thừa nhận là một chất dinh dưỡng và xem nó như là một chất hóa học có tác dụng gắn kết chất calcium và chất sắt trong ruột, ngăn cản sự hấp thụ của chúng (binding minerals like calcium and iron in the intestins, keeping them from being absorbed).
Bởi vì đậu nành rất giàu chất phytate, nên trước đây vì một số nghiên cứu chưa chính xác mà các nhà khoa học cố tìm cách làm ra một loại đậu nành có chứa hàm lượng phytate thấp. Tuy nhiên kết quả sau nhiều năm lại đổi ngược khi khoa học gia đã tìm thấy hóa thảo phytate không những có tác dụng ngăn ngừa mầm mống gây ung thư mà còn có khả năng ngăn ngừa cả bệnh tim mạch, huyết áp.
Hai nhà nghiên cứu khoa học là Drs. E. Graf và J.W. Eaton, đã cho biết rằng những thực phẩm giàu chất phytate cũng thường có nhiều chất xơ và những thực phẩm này bảo vệ chúng ta khỏi bị bệnh ung thư kết tràng (colon cancer) không những vì chất xơ mà còn vì hóa thảo phytate. Kết quả trong phòng thí nghiệm cho thấy rằng phytate đã liên tiếp ngăn cản không cho bệnh ung thư kết tràng phát triển và ngay cả ngăn cản không cho phát sinh mầm ung thư vú. Ðiều này cũng dễ hiểu vì phytate có tác dụng ngăn cản sự hấp thụ chất sắt trong ruột
Free radicals - các gốc oxy hóa tự do hoạt động rất mạnh và phá hoại (very reactive and destructive) các tế bào, kể cả ADN. Chúng là nguyên nhân sự phát triển bệnh ung thư, bệnh tiểu đường và bệnh xưng khớp xương arthritis. Chất sắt (iron) sản sinh ra free radicals, nhưng khi có sự hiện diện của hóa thảo phytate, chất sắt này sẽ chặn đi khả năng sản sinh và vì thế phytate có cơ chế rất giống như chất chống oxy hóa (antioxydants), như vitamin C và beta-carotene mà ta đã biết.
Sự gây phương hại của phytate khiến chất sắt thiếu trong cơ thể vì nó ngăn cản sự hấp thụ chúng đã được nhắc đến nhiều trong những năm qua, nhưng nay các nhà khoa học đã khám phá ra rằng phytate bảo vệ cơ thể khỏi nạn dư thừa quá nhiều chất sắt. Sự dư thừa này là một trong nhiều yếu tố nguy hại đến chứng bệnh nhồi máu cơ tim (heart disease).
Ngoài việc chống gốc oxy hóa tự do, ngăn cản không cho mầm ung thư vú và ung thư kết tràng, phytate cũng còn có khả năng ngăn ngừa ung thư khi gia tăng hệ thống miễn nhiễm thông qua các hoạt động của các đơn vị tế bào phòng vệ tự nhiên (natural killer cells), mà chúng có thể tấn công và phá hủy các tế bào ung thư.
Phytosterols
Phytosterols và cholesterol có mối liên hệ. Tuy nhiên, phytosterol chỉ có trong các thực phẩm rau đậu còn cholesterol chỉ có nhiều ở các thực phẩm có nguồn gốc từ thịt động vật.
Không giống như cholesterol, phytosterol có tác dụng ngăn ngừa các bệnh về tim mạch qua việc giành chỗ thẩm thấu qua ruột của cholesterol để vào máu, thành thử cholesterol không vào máu được mà phải bài tiết ra ngoài, do đó số lượng cholesterol trong máu bị giảm
Sau nhiều cuộc thử nghiệm nghiên cứu, các khoa học gia nhận thấy rằng, phytosterol có khả năng làm giảm lượng cholesterol trong máu, tuy nhiên tùy vào từng cá nhân thì sẽ có tác dụng thay đổi khác nhau có thể lượng cholesterol giảm 12% hoặc một cá nhân khác giảm 40%.
Cơ thể chúng ta không hấp thụ dễ dàng phytosterol, vì thế nó được đẩy ra ngoài qua đường ruột. Sự kiện này đã giúp kết tràng (colon) khỏi bị tác dụng của muối mật. Trong phòng thử nghiệm, phytosterol đã giảm độ phát triển các mụn ung thư kết tràng đến 50% và chống lại ung thư da. Trong các nhóm tiêu thụ nhiều thực phẩm đậu nành như tại Nhật Bản, những người ăn chay, và Giáo Hội Cơ Ðốc Phục Lâm Seventh-Day Adventists qua quan sát và ghi nhận có tỷ xuất thấp về bệnh ung thư kết tràng (colon cancer). Một sự so sánh rõ nhất khi trong thực đơn người Tây phương cho thấy lượng tiêu thụ 80 mg phytosterol một ngày, trong khi người Nhật Bản tiêu thụ khoảng 400 mg/ngày.
Saponins
Giống như phytate, saponin là một loại hóa thảo có đặc tính giảm lượng cholesterol trong máu, chống lại mầm ung thư có trong đậu nành và như chất chống ốc xy hóa (antioxydant), bảo vệ tế bào cơ thể chúng ta khỏi bị hư hại do tác dụng free radicals. Ghi nhận tại những nhóm người ăn chay và người Châu Á cho thấy họ ăn nhiều thực phẩm đậu nành, thường có tỷ lệ thấp căn bệnh ung thư kết tràng so với người phương Tây.
Phenolic acids
Phenolic acid là một hóa thảo chống ốc xi hóa anti-oxidants và phòng ngừa các nhiễm sắc thể ADN khỏi bị tấn công bởi các tế bào ung thư.
Lecithin
Lecithin là một hóa thảo quan trọng, đóng một vai trò quyết định trong việc kích thích sự biến dưỡng ở khắp các tế bào cơ thể. Lecithin có khả năng cải thiện trí nhớ bằng cách nuôi dưỡng tốt hệ thần kinh và các tế bào não, giúp làm vững chắc các tuyến và tái tạo các mô tế bào cơ thể. Nó cũng có công năng cải thiện hệ thống tuần hoàn, bổ xương, và tăng cường sức đề kháng. Khi hệ thần kinh thiếu năng lượng, chất lecithin ở đậu nành sẽ phục hồi năng lượng đã mất. Trong đậu nành có chứa 3% chất lecithin, bằng với lượng lecithin có trong lòng đỏ trứng gà.
Ngoài ra, lecithin cũng có tác dụng giảm lượng cholesterol trong máu. Trong một nghiên cứu, Dr. Lister Morrison thử nghiệm 36 grams soy lecithin cho một người và kết quả cho thấy lượng cholesterol trong máu giảm 30%. Một thí nghiệm khác cũng cho kết quả tương tự. Tuy nhiên, một điều nên biết là trung bình người dân Mỹ tiêu thụ hàng ngày khoảng 3 grams lecithin, cho nên, dù cho lecithin có làm giảm choleterol nhưng phải với một lượng thật lớn và trường kỳ, điều này không dễ áp dụng.
Bowman-Birk Inhibitor (BBI)
BBI là một hóa thảo mới nhất tìm thấy trong đậu nành, ức chế mạnh và đặc biệt protease giống trypsin và chymotrypsin, hiện đang được nghiên cứu như là tác nhân ngăn ngừa ung thư đại trực tràng. Các nghiên cứu trên mô hình động vật đã chứng minh rằng BBI trong chế độ ăn uống từ một số nguồn họ đậu, bao gồm đậu tương, hạt đậu, đậu lăng và đậu xanh, có thể ngăn chặn hoặc ngăn chặn các quá trình gây ung thư và viêm nhiễm trong GIT
Mặc dù các mục tiêu điều trị và cơ chế hoạt động của BBI vẫn chưa được làm sáng tỏ, các bằng chứng mới nổi cho thấy rằng BBI phát huy đặc tính phòng ngừa thông qua sự ức chế protease; theo nghĩa này, các protease serine nên được coi là mục tiêu chính trong giai đoạn đầu của quá trình sinh ung thư.
Theo báo cáo trong nhiều kết quả tường trình tại hội nghị khoa học thế giới về vai trò của đậu nành trong việc phòng bệnh và trị bệnh, tổ chức tại Brussells, Belgium ngày 15-18 tháng 09 năm 1996, thì PBBI và BBIC đã chế ngự được sự phát triển tiến trình ung thư miệng, vú, ruột già, gan, phổi, và thực quản (esophagus), cả nơi các tế bào trong ống thử nghiệm lẫn nơi các con chuột bạch và chuột đồng. Họ cho biết PBBI và BBIC không có tác hại ở liều lượng dùng để chống lại ung thư.
Hiện nay chất này đã được dùng trong con người ở vài trung tâm nghiên cứu và kết quả sơ bộ rất là khả quan. BBIC đã được thẩm định là loại thuốc mới bởi cơ quan F.D.A (IND # 34671; sponsor Ann R. Kennedy, University of Pennsylvania of Medicine, Philadelphia, PA April 1992). Cũng nên biết là tại trường đại học University of California, Irvine, BBIC đã được áp dụng kể từ đầu năm 1997, trong việc phòng ngừa ung thư miệng, dưới sự bảo trợ bởi Viện Ung Thư Quốc Gia Mỹ
Omega-3 fatty acids
Omega-3 fatty acid có bằng chứng mạnh mẽ cho thấy làm giảm đáng kể lượng chất béo trung tính trong máu. Ngoài ra như là một cải tiến nhỏ trong mật độ cao lipoprotein (HDL) cholesterol tốt , mặc dù sự gia tăng mức độ lipoprotein tỷ trọng thấp (LDL) cholesterol xấu cũng được quan sát thấy. Nhiều nghiên cứu khoa học đã xác nhận tiêu thụ nhiều omega-3 fatty acids có trong các loại thực vật như đậu nành, hạt hemp, flax, hạt pumpkin, walnuts và các lá rau xanh giúp chống lại sự phát triển các căn bệnh về tim mạch. Ngoài ra, omega-3 fatty acids còn gọi là alpha-linolenic acid, gồm hai thứ EPA và DHA cũng có trong một vài loại cá biển và trong fish-liver oil supplements, nó cũng có những khả năng giống như omega-3 trong thực vật nhưng có thêm một cái không tốt là nó có tác dụng làm cho các phân tử tế bào cơ thể trở nên không ổn định, tức sản sinh ra các chất oxygen free radicals là những chất gây ra ung thư và gây xáo trộn chất insulin, sinh ra chứng tiểu đường. Vì thế các khoa học gia thuộc Viện Ðại Học Arizona và Viện Ðại Học Cornell đã công bố sự nguy hiểm của omega-3 fatty acid trong cá và dầu cá
Có thể thấy ngoài các hóa thảo có công năng ngăn ngừa bệnh tim mạch, ung thư; trong đậu nành còn có một chất mà luôn được các khoa học gia săn đón và đưa ra nhiều nghiên cứu để chứng minh độ an toàn đến người dùng.
Isoflavones
Isoflavones bao đời nay luôn là điểm sáng khiến nhiều giới khoa học gia luôn nghiên cứu và tìm ra nhiều hơn nhứng tác dụng của nó, vì đầy là một loại hóa thảo có cấu trúc và sự vận hành tương tự như chất kích thích tố nữ (female hormone estrogen). Vì thế các nhà khoa học đặt cho Isoflavones với tên gọi estrogen thực vật (plant estrogen hay phytoestrogens)
Sau khi trải qua nhiều nghiên cứu nghiêm ngặt, các khoa học gia đều cho rằng isoflavones là loại hóa thảo có khả năng chống lại các tác dụng gây nên chứng ung thư mãnh liệt liên quan đến hormone.
Bạn cần biết khi nạp quá dư thừa hàm lượng estrogen cần thiết trong cơ thể là mầm mống gây đến ung thư vú, ung thư buồng trứng (ovarian), tử cung (uterine), và ung thư cổ của phụ nữ.
Trong thói quen ăn uống dinh dưỡng của người phương Tây, thông thường họ đã nạp quá nhiều estrogen bởi vì tiêu thụ nhiều protein thịt động vật có sẵn chất hormone. Những sản phẩm thịt này đã được tiêm vào chất làm kích thích sự lớn nhanh và nhiều sữa cho động vật, mà đó cũng là nguyên nhân tại sao tỷ lệ phụ nữ ở phương Tây mắc ung thư cao hơn nhiều so với Châu Á.
Phần nhiều phụ nữ phương Tây mập vì chế độ dinh dưỡng nhiều thịt và chất béo, do đó cũng làm tăng hàm lượng estrogen, (buồng trứng tự động sản xuất thêm estrogen khi quá chất béo cần thiết). Nơi đàn ông chất béo thặng dư được biến đổi thành androgens và là nguyên nhân dẫn đến bệnh ung thư nhiếp hộ tuyến (ung thư tuyến tiền liệt).
Tuy nhiên ở đậu nành thì khác, hiện nay các nhà khoa học đã tìm thấy ba chất chính luôn tồn tại trong đậu nành: genistein, daidzein và glycetein trong isoflavones mà genistein là tâm điểm nghiên cứu.
Dựa theo các tài liệu nghiên cứu, GENISTEIN có những lợi ích: 1 Chống estrogen (anti-estrogen) bằng cách ngăn cản không cho sản sinh estrogen khi quá hàm lượng estrogen cần thiết trong cơ thể. 2 Ngăn ngừa sự phát triển các tế bào ung thư. 3 Bó hẹp sự phát triển các tế bào ung thư làm cho chúng trở lại trạng thái bình thường. 4 Ngăn trở sự lớn mạnh của các tế bào ung thư ADN nhưng không ngăn cản sự lớn mạnh của các tế bào bình thường. 5 Hoạt động như là các chất chống oxy hóa (anti-oxidant), bảo vệ các tế bào bình thường khỏi bị hư hại bởi sự tấn công của các chất dễ gây chứng ung thư (freeradical).
Bởi vì các tác lợi ích lớn trên của genistein, nên isoflavone được coi là một hóa thảo chất lượng có thể chống lại các căn bệnh ung thư mà các nhà khoa học đã đau đầu trong nhiều năm qua. Giới khoa học gia tin tưởng rằng genistein cần phải được tinh chế thành dược liệu để điều trị các loại ung thư.
Genistein đã được thử nghiệm thành công trong việc phá hủy các tế bào ung thư máu BCP trong loài chuột đã được thực hiện tại một nghiên cứu của Viện Ðại Học Minnesota. (Ung thư máu BCP là một loại ung thư phổ thông nơi trẻ em)
Cũng có nhiều bằng chứng cho rằng chất genistein đã chữa trị khỏi chứng nóng phừng, phòng ngừa bệnh xốp xương, và có thể thay thế loại estrogen supplement Premarin và cancer-fighting drug Tamoxifen trên thị trường bởi vì những thử nghiệm cho hay tác dụng của isoflavones đậu nành vào hormone tương tự như tác dụng của loại thuốc chống ung thư này.
Genistein cũng có khả năng ngăn ngừa các bệnh nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu não và sự phát triển tiến trình xơ cứng mạch máu (atherosclerosis). Cuối cùng, genistein là một hóa thảo khá mạnh chống lại các chứng bệnh sưng như bệnh sưng khớp xương (arthritis) và các chứng bệnh liên hệ đến tình trạng đau nhức ở các khớp xương và bắp thịt như rheumatoid arthritis.
Ngoài genistein ra, một chất khác của isoflavone đậu nành là chất DAIDZEIN cũng có những lợi ích như genistein:
- Có khả năng ngăn ngừa sự hao mòn xương và sự phát triển chứng bệnh xốp xương.
- Khả năng chống ốc xi hóa (anti-oxidant) và chống ung thư (anti-cancer)
- Kích thích các tế bào ung thư máu để trở thành thứ khác và chuyển hoán chúng về trạng thái bình thường.
Dựa theo các tài liệu nghiên cứu, GENISTEIN có những lợi ích: 1 Chống estrogen (anti-estrogen) bằng cách ngăn cản không cho sản sinh estrogen khi quá hàm lượng estrogen cần thiết trong cơ thể. 2 Ngăn ngừa sự phát triển các tế bào ung thư. 3 Bó hẹp sự phát triển các tế bào ung thư làm cho chúng trở lại trạng thái bình thường. 4 Ngăn trở sự lớn mạnh của các tế bào ung thư ADN nhưng không ngăn cản sự lớn mạnh của các tế bào bình thường. 5 Hoạt động như là các chất chống oxy hóa (anti-oxidant), bảo vệ các tế bào bình thường khỏi bị hư hại bởi sự tấn công của các chất dễ gây chứng ung thư (freeradical).
Bởi vì các lợi ích lớn trên của genistein, nên isoflavone (Phytoestrogen) được coi là một hóa thảo chất lượng có thể chống lại các căn bệnh ung thư mà các nhà khoa học đã đau đầu trong nhiều năm qua. Giới khoa học gia tin tưởng rằng genistein cần phải được tinh chế thành dược liệu để điều trị các loại ung thư.
>> XEM THÊM: Phytoestrogen níu kéo sức khỏe và thanh xuân phụ nữ <<
>> XEM THÊM: MỐI LIÊN QUAN GIỮA U XƠ TỬ CUNG VÀ PHYTOESTROGEN CÓ TRONG MẦM ĐẬU NÀNH: NGHIÊN CỨU BIỆN – CHỨNG THỰC HIỆN Ở PHỤ NỮ TẠI HOA KỲ <<
Xem thêm